(GD&TĐ) -
Thực hiện Chỉ thị 296 của Thủ tướng Chính phủ, Chương trình hành động
của Bộ GD&ĐT và Nghị quyết 05 của Ban cán sự Đảng Bộ GD&ĐT về
đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 – 2012, Báo GD&TĐ đã
tổ chức Diễn đàn “Vì sao phải nâng cao chất lượng đào tạo, làm gì để
đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo” trên cả 2 ấn phẩm là Báo
GD&TĐ báo in và Báo GD&TĐ điện tử.
Sau
hơn 2 tháng tổ chức Diễn đàn đã nhận được sự tham gia đông đảo của các
tác giả là cán bộ quản lý các nhà trường, những nhà khoa học, giảng viên
đại học, các vị tướng lĩnh, lãnh đạo các nhà trường trong Quân đội và
Công an, đại diện Đoàn Thanh niên... đến từ khắp 3 miền đất nước. Các
bài viết tham gia Diễn đàn đều thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, tâm
huyết với sự nghiệp đổi mới GDĐH và quyết tâm thực hiện Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ và Chương trình hành động của Bộ GD&ĐT trong việc
đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo trong GDĐH. Ban biên tập đã
chọn lựa những bài viết tiêu biểu, những ý kiến sát với nội dung, đưa
in trên các ấn phẩm báo in và báo điện tử. Trên số báo này (các trang
6,7,8), chúng tôi xin trích ý kiến của một số tác giả đã có bài viết
được đăng trên Diễn đàn, và trích dẫn những ý kiến từ các bài viết đã
được gửi đến nhưng chưa kịp in trên Diễn đàn. Diễn đàn đã khép lại, việc
thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Chương trình hành động của
Bộ GD&ĐT là cả một chặng đường dài, Báo GD&TĐ mong muốn tiếp
tục nhận được sự cộng tác của bạn đọc cả nước- những người tâm huyết với
sự nghiệp GD&ĐT cùng trao đổi, hiến kế để GDĐH phát triển hơn nữa,
đáp ứng yêu cầu của xã hội.
|
GS.TSKH. NGND Đặng Ứng Vận |
* GS.TSKH. NGND Đặng Ứng Vận – nguyên Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục, Hiệu trưởng Trường ĐH Hòa Bình:
Chương trình hành động của Bộ GD&ĐT đã thể hiện được một bước tiến
quan trọng trong công tác quản lý cấp nhà nước. Hiệu quả của Chương
trình không thể đánh giá ngày một ngày hai được nhưng tính công khai,
minh bạch và sự kiên quyết trong kế hoạch tổ chức thực hiện đã hứa hẹn
những thay đổi quan trọng.
Thực tiễn
phát triển đa dạng và phong phú của GDĐH Việt Nam trong thời gian qua
cho thấy hệ thống GDĐH luôn luôn chịu những tác động nhiều chiều từ xã
hội, từ hội nhập quốc tế và đặc biệt là từ sự xâm nhập ngày càng tăng
của cơ chế thị trường.... Chúng ta đang mở rộng khu vực tư nhân trong
GDĐH bằng cách chia sẻ chi phí giữa nhà nước và người học, mở thêm các
trường tư và chuyển các trường dân lập thành tư thục. Chúng ta cũng dần
dần tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các trường trong khu vực
công và tư, giữa các trường công với nhau, giữa các trường tư với nhau
và giữa các trường của Việt Nam với các trường nước ngoài. Luật Giáo dục
cũng đã khẳng định sự bình đẳng giữa trường công và trường tư. Sự khác
biệt chỉ là ở nguồn vốn đầu tư. Xu thế chống độc quyền trong giáo dục
đại học Việt Nam vì thế đã rất rõ ràng.
Chính
phủ cũng đã nhấn mạnh trong nhiều văn bản chính thức về việc trao quyền
tự chủ cho các trường, nhấn mạnh tính tự chủ phải đi kèm với tự chịu
trách nhiệm trước xã hội (trách nhiệm về tinh thần, pháp lý và trách
nhiệm giải trình). Việc trao quyền tự chủ cho các trường tức là giảm
thiểu sự can thiệp của Chính phủ về các mặt tài chính, nhân sự, chương
trình giảng dạy đối với đại học, đem quyền đưa ra những quyết sách giao
cho trường học; đồng thời với tăng cường quản lý vĩ mô, kiên quyết thực
hiện nới lỏng, giảm bớt các thủ tục hành chính, giảm bớt xin-cho. Cân
bằng cung cầu trong giáo dục đang được điều tiết bởi cả Chính phủ và thị
trường.
|
GS.TS Nguyễn Lân Dũng |
* GS.TS Nguyễn Lân Dũng: Đổi
mới quản lý giáo dục phải đi sâu vào thực chất chứ không nên làm hời
hợt bằng các biện pháp hành chính. Muốn thoát khỏi tình trạng "cơm chấm
cơm", tình trạng học "chay", cần học các nước khác về việc đưa các Viện
nghiên cứu, các Trung tâm về hẳn hoặc gắn bó chặt chẽ với các trường ĐH,
CĐ. Chúng ta nên biết hiện nay Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam có
tới 25 Viện nghiên cứu quốc gia với 2.464 cán bộ khoa học, trong đó có
tới 207 giáo sư, phó giáo sư, 673 tiến sĩ và 538 thạc sĩ. Viện Khoa học
Xã hội Việt Nam hiện có tới 31 Viện nghiên cứu quốc gia với 1.500 cán bộ
khoa học, trong đó có tới 600 cán bộ có trình độ trên Đại học. Viện
Khoa học nông nghiệp Việt Nam hiện có trên 10 Viện nghiên cứu quốc gia
với 1.770 cán bộ khoa học, trong đó có 25 GS,PGS. 144 TS và 277 ThS.
Ngoài ra trực thuộc Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam cũng còn có tới 500
đơn vị nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với số lượng rất đông
các nhà nghiên cứu có trình độ ĐH và sau ĐH. Tại sao các nước giàu có
người ta còn kết hợp các cơ quan nghiên cứu với các trường ĐH, CĐ, còn
một nước nghèo như nước ta lại tách rời ra. Việc ba Viện nghiên cứu lớn
tự lấy tên giao dịch quốc tế là Viện Hàn lâm (Academy) liệu có phải là
chuyện hợp pháp hay không?
|
GS. TSKH Vũ Minh Giang |
* GS. TSKH Vũ Minh Giang- Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục, Phó Giám đốc ĐHQG Hà Nội:
GDĐH Việt Nam mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng đang
còn nhiều bất cập, hạn chế, trong đó đặc biệt là chất lượng còn thấp,
khả năng cạnh tranh chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do khả năng
đầu tư nguồn lực của Nhà nước và huy động các nguồn lực ngoài ngân sách
còn nhiều khó khăn, việc lựa chọn một số cơ sở giáo dục có truyền
thống, có chất lượng, thậm chí lựa chọn một số ngành, chuyên ngành có
khả năng nhất để tập trung phát triển là một giải pháp khả thi của bài
toán “quy mô và chất lượng” hiện nay. Thực tế, giải pháp này xuất phát
từ kinh nghiệm đã thành công của một số quốc gia trên thế giới. Trước
hết đó là bài học của Trung Quốc trong cuộc cải cách GDĐH. Với điều kiện
đầu tư ngân sách Nhà nước còn tương đối hạn hẹp, không thể đáp ứng theo
kiểu đầu tư dàn trải, năm 1993 Trung Quốc có chương trình 211 nhằm xây
dựng “100 trường ĐH đạt chuẩn”, mỗi trường lại lựa chọn một số ngành đào
tạo có thế mạnh về nhân lực và tiềm năng để tập trung phát triển theo
chuẩn các trường tiên tiến trên thế giới. Tháng 5/1998, Chính phủ Trung
Quốc đã có Đề án 985 nhằm đầu tư xây dựng một số trường ĐH sớm đạt đẳng
cấp quốc tế như Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh. Hoặc mới đây, Tổng
thống Cộng hoà liên bang Nga mới ký Luật về Đại học quốc gia, giao cho
Đại học quốc gia Mat-xcơ-va Lômnôxôp và Đại học Quốc gia Xanh Pê téc bua
vốn là những đại học có sự đầu tư rất cao của chính phủ, quyền chủ động
rất cao trong tổ chức bộ máy, hoạt động đào tạo và NCKH, quản lý tài
chính nhằm tạo điều kiện đặc biệt để nhanh chóng phát triển và hội nhập
thế giới ở trình độ cao.
Cùng với
việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hội nhập
ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới, nguồn nhân lực chất lượng
cao, đạt trình độ quốc tế, đủ sức để đưa nền KTXH, KHCN Việt Nam phát
triển là một nhu cầu cấp thiết. Để làm được điều đó, GDĐH phải có những
chuyển biến đáp ứng xu thế hội nhập. Đây là thời cơ và cũng là thách
thức đối với các trung tâm ĐTĐH để phát triển lớn mạnh và cũng là cơ hội
để khẳng định chính mình.
* PGS.TSKH Nguyễn Đình Luận – Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội: Tôi cho rằng có 3 yếu tố quan
|
PGS.TSKH Nguyễn Đình Luận |
trọng
có ý nghĩa quyết định là: Con người, hạ tầng cơ sở, trang thiết bị phục
vụ cho đào tạo và năng lực hội nhập quốc tế. Có thể thấy, yếu tố con
người luôn là yếu tố quyết định hàng đầu, chi phối trực tiếp vào quá
trình đào tạo trong trường đại học. Yếu tố con người không chỉ nói đến
đội ngũ thầy cô giáo mà bao gồm cả đội ngũ cán bộ quản lý. Thành công
của một vở diễn không chỉ phụ thuộc vào diễn viên trên sân khấu. Để phục
vụ cho một giảng viên đứng lớp phải kèm theo một đội ngũ phục vụ từ
khâu lên chương trình, thời khóa biểu, chuẩn bị cơ sở vật chất, thiết bị
giảng dạy…. Tức là có cả một đội ngũ phục vụ trong toàn hệ thống. Trình
độ chuyên môn của người thầy, năng lực nghiệp vụ của cán bộ phục vụ là
then chốt. Nhưng con người đó có chuyên nghiệp, có nỗ lực lao động
không, điều kiện làm việc của họ có tốt không sẽ tác động quan trọng đến
chất lượng đào tạo.
Thực tế cho
thấy, copy một chương trình quốc tế rất dễ nhưng thực hiện được thì lại
là cả một vấn đề lớn nếu không có những con người có đủ năng lực triển
khai. Việc thiết kế được chương trình chuẩn, nội dung tiếp cận được với
các chương trình giáo dục của những nước tiên tiến với đúng nghĩa của nó
đã là một vấn đề không dễ làm nếu không chủ động hội nhập giáo dục quốc
tế. Nhưng khi có chương trình rồi thì đội ngũ có khả năng, năng lực
tiếp cận với thực tế đó không. Làm tốt được những điều đó chính là nền
tảng làm nên chất lượng.
Khi đã có
thầy giỏi, giáo trình, phương tiện học tập đầy đủ, trò ham học là những
điều kiện tốt để đảm bảo chất lượng, thì vai trò của người quản lý sẽ là
yếu tố quyết định thành công. Người quản lý giỏi sẽ giải quyết tốt mối
quan hệ sư phạm cần thiết và quan trọng này. Do vậy, bài toán chất lượng
rất cần người quản lý có đủ trình độ, năng lực để thể hiện trách nhiệm
quản lý trong giai đoạn hiện nay.
|
GS.TS.NGƯT Trần Hữu Nghị |
* GS.TS.NGƯT Trần Hữu Nghị- Bí thư Đảng uỷ, Hiệu trưởng Trường Đại học Dân lập Hải Phòng: Thực
ra việc SV đánh giá về chất lượng lên lớp của giảng viên ở các nước
tiên tiến người ta đã làm từ rất lâu rồi, hình thức đào tạo theo tín chỉ
cũng là cách SV đánh giá giảng viên. Cứ thử hỏi cùng một môn học đa số
SV đăng ký giảng viên A, B, trong khi đó rất ít SV đăng ký lớp học của
giảng viên C, việc đăng ký học đó nói lên ý kiến của SV về chất lượng
giảng dạy của giảng viên, giảng viên nào có chuyên môn tốt, có phương
pháp giảng dạy tốt, thuyết phục và nhiệt tình thì SV theo học đông và
ngược lại. Nói theo ngôn ngữ quản lý chất lượng thì SV là khách hàng
trực tiếp, đầu tiên của thầy giáo. Họ được thụ hưởng sự giáo dục của
thầy thì họ có quyền nói lên chất lượng của hoạt động đó. Từ năm học
2009-2010, Bộ GD&ĐT chủ trương triển khai đồng loạt việc SV đánh giá
chất lượng giảng dạy của giảng viên là một giải pháp tích cực nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo, chắc chắn sẽ được xã hội ủng hộ, các cán bộ
quản lí, phụ huynh, SV, các doanh nghiệp sử dụng lao động cũng như SV
đồng tình.
* PGS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (ĐHQG Hà Nội): Chỉ thị của
|
PGS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc |
Thủ
tướng Chính phủ, Chương trình hành động của Bộ GD&ĐT cũng như của
ĐHQG Hà Nội đều nhấn mạnh đổi mới quản lý giáo dục đại học là khâu đột
phá trong công cuộc đổi mới giáo dục đại học ở nước ta hôm nay...
Một
trong những việc đầu tiên cần đổi mới là đổi mới việc quản lý chương
trình giáo dục (curriculum), từ khâu thiết kế, quá trình thực thi tới
việc đánh giá kết quả thực thi chương trình đó. Là cơ quan quản lý nhà
nước cao nhất về GD&ĐT, Bộ GD&ĐT nên thực hiện các biện pháp đổi
mới sau: Phân quyền tối đa cho các trường trong việc thiết kế chương
trình, chỉ nên quản lý các nội dung sau: Xây dựng quy trình xác định
chuẩn đầu ra cho 1 chương trình như yếu tố quyết định tới nội dung đào
tạo (các môn học), phương thức đào tạo, kiểm tra đánh giá kết quả đào
tạo; Thực hiện kiểm định chương trình như một yếu tố quyết định chất
lượng đào tạo (4 năm một lần); Phối hợp với các hội nghề nghiệp quản lý
SV tốt nghiệp theo chuẩn nghề nghiệp; Thực hiện kiểm định chất lượng cấp
trường, đánh giá các điều kiện đảm bảo chất lượng. Các trường đại học
cần thực hiện quy trình xác định chuẩn đầu ra cho một chương trình như
một yếu tố quyết định việc sắp xếp nội dung dạy học, tổ chức đào tạo và
kiểm tra đánh giá kết quả đào tạo; Xây dựng quy trình dạy học theo tín
chỉ với các hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra đánh giá tương ứng;
Xây dựng quy trình kiểm tra đánh giá kết quả học tập một cách khoa học
để có thể thực hiện được chức năng sàng lọc, vì sự tiến bộ của người
học; Định kỳ đánh giá chương trình giáo dục thông qua nhà sử dụng, cựu
SV, và các thành phần khác. Các giảng viên cần thực hiện nghiêm túc quy
trình dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập; Thường xuyên cập nhật
nội dung môn học, đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá; Sau
mỗi học kỳ đánh giá cải tiến chương trình môn học, cập nhật, đổi mới ít
nhất 20% nội dung môn học; Thu thập thông tin phản hồi từ sinh viên,
đồng nghiệp, nhà quản lý để điều chỉnh hoạt động dạy học. Sinh viên với
sự tư vấn của cố vấn học tập, xây dựng kế hoạch học tập cho bản thân,
cần rèn luyện phong cách học đại học (tự học, tự nghiên cứu, xác định
mục đích là học tập cho bản thân chứ không phải vì bằng cấp).
|
PGS.TS Trần Đắc Sử |
* PGS.TS Trần Đắc Sử - Hiệu trưởng Trường Đại học Giao thông vận tải: Nhìn
nhận bức tranh chung của GDĐH Việt Nam, có thể chỉ ra các nguyên nhân
đó là: Vẫn còn tâm lý coi trọng bằng cấp của người học cũng như người sử
dụng lao động còn khá nặng nề, chưa chú ý đến chất lượng thực sự của
tấm bằng đó. Tuy nhiên, điều này trong tương lai không xa sẽ bị xoá bỏ
khi các đơn vị sử dụng lao động quan tâm nhiều hơn tới kỹ năng làm việc,
năng lực chuyên môn của người lao động. Các trường đại học đều phải rất
khó khăn khi giải quyết bài toán cân đối giữa mở rộng quy mô với đảm
bảo chất lượng đào tạo, giữa thị hiếu của người học với khả năng đào tạo
và cơ cấu ngành nghề. Vì vậy muốn giữ được uy tín và thương hiệu của
mình, tạo được sức hút đối với xã hội thì phải đổi mới công tác quản lý,
đổi mới nội dung, chương trình, phương thức đào tạo.
Hiện
nay, do nhiều lý do khác nhau, các trường đại học của nước ta thường
chưa tiến kịp so với thực tiễn sản xuất. Các sản phẩm nghiên cứu của các
trường đại học ứng dụng vào thực tiễn chưa tương xứng với tiềm năng của
đội ngũ các nhà giáo, nhà khoa học; chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa
nhà giáo- nhà khoa học với thực tiễn. Hiệu quả của NCKH phục vụ giảng
dạy và đời sống còn khá thấp, gây lãng phí chất xám của xã hội. Vì vậy,
việc nâng cao hiệu quả của công tác NCKH là rất cần thiết. Cơ chế, chính
sách đối với nhà giáo còn nhiều vấn đề chưa phù hợp, rất khó thu hút
người tài về làm giảng viên nhưng lại rất dễ xảy ra tình trạng chảy máu
chất xám từ các trường đại học ra các doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài). Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
trường rất khó thực hiện một cách đầy đủ vì còn nhiều quy định mang tính
thống nhất chưa cao. Nếu cơ chế quản lý GDĐH được đổi mới một cách đồng
bộ; bản thân các trường cố gắng tự đổi mới một cách quyết liệt, điều
này chắc chắn sẽ được khắc phục.
* GS.TS Nguyễn Trọng Giảng- Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội: Có nhiều người cứ
|
GS.TS Nguyễn Trọng Giảng |
đặt
câu hỏi: Tại sao hệ thống GD ĐH hiện nay quá ỳ? Tôi khẳng định không
phải các trường ĐH ỳ, mà các trường ĐH đang bị hạn chế bởi một cơ chế
khiến không thể năng động được. Chính bởi thế mà Thủ tướng Chính phủ đã
nói rằng phải đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước trong GDĐH. Theo đó, Bộ
GD&ĐT cần nghĩ ra một cơ chế để quản lý hệ thống - một cơ chế thuận
lợi để các trường ĐH phấn đấu và tự chịu trách nhiệm với xã hội, chịu
trách nhiệm với chính mình... Tự chủ phải là sự hài hoà của 3 khâu: Tự
chủ về học thuật; Tự chủ tài chính; Tự chủ về tổ chức và cán bộ. Tự chủ
về học thuật gồm chương trình đào tạo; nội dung đào tạo; tiêu chuẩn học
thuật đầu ra, đầu vào; phương thức tuyển sinh…
Tự
chủ về tài chính là tự chủ về tìm kiếm, khai thác và sử dụng tài chính,
sử dụng và khai thác tài sản của nhà trường. Với một trường ĐH, nhiệm
vụ chính trị bao giờ cũng là nghiên cứu và đào tạo. Nhưng nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu là phải có tài chính, là làm ra đồng tiền. Có tiền mới
đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị. Khai thác tài chính có thể từ
nhiều nguồn: học phí; kinh phí NCKH từ Nhà nước, từ doanh nghiệp, từ hợp
tác quốc tế; kinh phí từ hoạt động CGCN, dịch vụ, SX-KD… Trong bối cảnh
tự chủ, các trường ĐH bình đẳng với nhau trong việc cạnh tranh nguồn
lực tài chính từ Nhà nước, từ xã hội, từ doanh nghiệp. Vì phải cạnh
tranh bằng chính thực lực của mình nên anh nào cũng phải năng động, phải
sáng tạo, phải tự hoàn thiện mình, phải tạo dựng được uy tín đối với xã
hội. Và như vậy, dần dần chúng ta sẽ có một hệ thống tự chủ, phát triển
ổn định và bền vững.
Khi nói về tự
chủ qui mô đào tạo và học phí, chúng ta cũng đừng ngại sẽ xảy ra một sự
“bùng nổ” tùy tiện, không thể kiểm soát. Chính trách nhiệm đối với xã
hội và trách nhiệm đối với sự tồn tại và phát triển của chính mình mà
các trường được giao quyền tự chủ phải tính toán, cân nhắc qui mô đào
tạo sao cho hợp lý, học phí cũng phải tương ứng với chất lượng dịch vụ
đào tạo.
Đồng thời với tự chủ về
học thuật và tự chủ về tài chính là tự chủ về tổ chức và cán bộ. Để có
thể tiếp nhận cơ chế tự chủ thì bắt buộc nhà trường ĐH phải thay đổi rất
nhiều. Trường nào có bước chuẩn bị tốt thì sẽ tiếp nhận tự chủ dễ hơn.
Đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý là một vấn đề hết sức quan trọng.
Khi nhà trường đã có quyền tự chủ thì bắt buộc phải phân cấp cho các đơn
vị của mình quyền tự chủ chứ không thể nhà trường bao đồng tất cả mọi
việc được...
Tóm lại, phát triển bền
vững = tự chủ + tự chịu trách nhiệm! Nếu một trường nào đó tự chủ mà vô
trách nhiệm thì chỉ là “chụp giật”, như vậy thì sẽ tồn tại được bao
lâu? Phải luôn nghĩ một điều rằng một trường ĐH muốn tồn tại phát triển
được thì phải có trách nhiệm trước xã hội, và quan trọng hơn hết là chịu
trách nhiệm với chính mình.
|
Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm |
* Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm - Giám đốc Học viện Cảnh sát Nhân dân:
Cần, phải duy trì sự gắn kết giữa hoạt động đào tạo với thực tiễn lao
động xã hội nghề nghiệp mà người học sẽ tham gia sau khi học. Chương
trình đào tạo còn nhiều bất cập, công nghệ đào tạo chưa phát huy được
vai trò chủ động, sáng tạo của giảng viên, học viên, cơ sở vật chất nói
chung còn thiếu; Cần, phải xây dựng công bố chuẩn đầu ra để định hướng
cho sự vận động của các khâu, các yếu tố của quá trình đào tạo- đây là
việc cần làm ngay. Vấn đề đặt ra là có chuẩn hay không có chuẩn mà chuẩn
phải rõ ràng, cụ thể, để giảng viên, học viên, cán bộ quản lý nhận thấy
mà hướng tới mục đích đạt được bằng con đường ngắn nhất, xác định (đo
lường được) nhất là các trường thuộc nhóm khoa học xã hội, nhân văn;
Cần, phải thực sự khách quan trong đánh giá kết quả học tập của người
học- Đánh giá kết quả học tập có tác động trực tiếp tới hoạt động dạy và
hoạt động học. Thực tế cho thấy nếu không thực hiện nghiêm túc, phù hợp
quy chế thi, đánh giá kết quả học tập sẽ không đo lường đúng chất lượng
đào tạo, không có cơ sở để cải tiến hoạt động dạy học nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo; Cần, phải giải quyết ngay, dứt điểm mâu thuẫn giữa
việc mở rộng quy mô đào tạo với đảm bảo chất lượng đào tạo; Cần, phải
xây dựng, thực hiện văn hóa chất lượng trong hoạt động đào tạo - làm cho
toàn xã hội có nhận thức rằng chất lượng đào tạo là kết quả chung của
toàn xã hội chứ không là việc riêng của ngành giáo dục. Do vậy mọi cấp,
mọi ngành nhất là những người lãnh đạo đầu ngành, đầu cấp phải có và
cùng chịu trách nhiệm trước xã hội về chất lượng đào tạo tại các cơ sở
đào tạo do ngành mình, địa phương mình quản lý. Tại các cơ sở đào tạo
cần làm cho không chỉ các thầy cô giáo mà còn làm cho mọi cán bộ, nhân
viên, học viên thấy rõ trách nhiệm bản thân với việc bảo đảm, nâng cao
chất lượng dạy học; coi chất lượng dạy học là mục tiêu tối thượng của
toàn cơ sở đào tạo.
* GS.TS Bùi Văn Ga - Giám đốc Đại học Đà Nẵng: Trong số rất nhiều việc cần làm, Ban Cán sự Đảng
|
GS.TS Bùi Văn Ga |
Bộ
GD&ĐT đã chọn việc đổi mới quản lý hệ thống GDDH làm khâu đột phá,
đây là sự lựa chọn đúng đắn và mang tính chiến lược của ngành...Về cách
thức tiến hành xây dựng hệ thống văn bản pháp quy chúng ta cần bám sát
vào điều kiện thực tế. Thời gian qua đã ban hành những văn bản, thậm chí
có những điều đã đưa vào luật GD nhưng khi thực hiện thì vướng khiến
các văn bản pháp qui đó chưa đi vào cuộc sống. Ví dụ như qui định về
thành lập Hội đồng Trường cho tới nay các cơ sở vẫn còn hết sức lúng
túng trong thực hiện. Lý do là chúng ta chưa xử lý được mối quan hệ giữa
các tổ chức hiện có với Hội đồng trường. Hoặc như thông tư qui định về
cách tính tiền vượt giờ cho giảng viên quá cao so với mức thực tế, các
cơ sở cũng không áp dụng được. Vì vậy trong kế hoạch hành động về hoàn
thiện hệ thống văn bản pháp luật mới của Bộ GD&ĐT, khi ra văn bản
pháp quy, chúng ta cần đi sát với điều kiện thực tiễn để các văn bản này
đi vào cuộc sống. Làm sao tất cả văn bản pháp qui đều được thực hiện để
đảm bảo sự nghiêm minh của luật pháp. Mục tiêu xây dựng các văn bản
pháp quy trong những năm sắp tới nhằm đưa hệ thống GD-ĐT vận hành một
cách chuyên nghiệp, vì vậy đội ngũ soạn thảo các văn bản này cũng phải
chuyên nghiệp. Trong chương trình hành động thực hiện nghị quyết 05 của
Ban Cán sự Đảng, Bộ đã xác định lộ trình ban hành 23 văn bản mới. Để đảm
bảo chất lượng của các văn bản, Bộ nên thành lập mỗi dự án văn bản một
nhóm soạn thảo gồm các cán bộ của Bộ và các chuyên gia đến từ các cơ sở
đào tạo. Văn bản trước khi đưa ra lấy ý kiến rộng rãi phải là văn bản
hoàn chỉnh cả nội dung và hình thức, tính toán tác dụng của nó trên mọi
khía cạnh. Vì vậy nhóm soạn thảo phải chuyên nghiệp, đầu tư thời gian
một cách thích đáng.
|
TS.NGƯT Nguyễn Văn Phát |
* TS.NGƯT Nguyễn Văn Phát - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế (Đại học Huế):
Muốn tạo ra sự đồng bộ thì trước hết phải tạo sự chuyển biến từ trong
nhận thức của mỗi cá nhân. Chúng tôi tiến hành ngay việc thảo luận rộng
rãi trong cán bộ, viên chức, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của họ để có chủ
trương công tác phù hợp. Một dẫn chứng mới nhất, vào đầu tháng 4, căn
cứ vào nội dung trong CV “Hướng dẫn thảo luận của Bộ GD&ĐT” về triển
khai chỉ thị 296 của Thủ tướng Chính phủ, các cán bộ, GV, SV của Trường
đã thảo luận xung quanh những câu hỏi cụ thể: Lãnh đạo Nhà trường, lãnh
đạo các Khoa, Phòng, Trung tâm, Bộ môn, CB-GV và SV phải làm gì để đổi
mới, để nâng cao chất lượng đào tạo? Đề xuất những ý tưởng, yêu cầu, nội
dung và giải pháp để cải tiến, đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất
lượng đào tạo và NCKH.
Công tác đào
tạo và quản lý sinh viên có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của
một trường đại học. Hai năm qua, Nhà trường kiên quyết “Nói không với
đào tạo không đạt chuẩn và không đáp ứng nhu cầu xã hội”, Hội thảo: “Đào
tạo và NCKH theo nhu cầu doanh nghiệp” do nhà trường tổ chức với sự
tham gia của gần 50 nhà doanh nghiệp trên địa bàn miền Trung, Tây Nguyên
cùng với cán bộ, giảng viên, SV được coi là điểm nhấn của chủ trương
đảm bảo chuẩn đầu ra.
Tôi cho rằng,
thành ngữ “có thực mới vực được đạo” luôn đúng trong thực hiện NCKH.
Thực tế, số lượng đề tài đăng ký không phải là ít, nhưng kết quả thực
hiện đến nơi đến chốn lại không nhiều. Trong điều kiện nguồn kinh phí
hạn hẹp của các trường hiện nay, việc cung cấp một chế độ thỏa đáng cho
người làm công tác NCKH rất khó, nhưng không thể không thực hiện ở mức
độ cần và đủ.
* Nguyễn Công Hào - Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (Đại học Huế): Việc nâng cao chất lượng GDĐH
|
Ông Nguyễn Công Hào |
phải
là sự kết hợp hài hòa và đồng bộ giữa cơ sở đào tạo (người quản lý,
chương trình giảng dạy, giảng viên, cơ sở vật chất…) với xã hội (các
doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động…). Vai trò của các cấp bộ đoàn cần
tập trung chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thông qua các buổi sinh hoạt đoàn, các đợt học chính trị đầu năm cũng
như triển khai nhiệm vụ năm học, Đoàn Thanh niên phải giáo dục cho đoàn
viên, sinh viên nhận thức rõ việc tiêu cực trong đào tạo là lãng phí
nguồn lực của xã hội, tự hủy hoại tương lai của sinh viên, vì vậy phải
nói không và tiêu cực trong đào tạo; Cần phối hợp với phòng Khảo thí-đảm
bảo chất lượng ở mỗi đơn vị để tạo điều kiện cho sinh viên tích cực
tham gia đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên, chương trình đào
tạo, kế hoạch và tổ chức quản lý đào tạo của nhà trường nhằm nâng cao
kết quả học tập; Tạo các diễn đàn như "Sáng tạo trẻ", "Kết nối sinh viên
với doanh nghiệp"... để sinh viên tham gia các hoạt động nghiên cứu
khoa học gắn với ngành nghề mình học. Tổ chức các câu lạc bộ học thuật
như Tin học, Tiếng Anh chuyên ngành…; Trang bị các kỹ năng mềm cho sinh
viên; Chi đoàn cán bộ cần quán triệt sâu sắc trong giảng viên trẻ trách
nhiệm và nghĩa vụ đối với chất lượng đào tạo của đơn vị. Không chấp nhận
gian lận, tiêu cực trong coi thi, chấm thi; hướng dẫn và chấm luận văn,
khóa luận tốt nghiệp, đánh giá kết quả học tập của sinh viên; Giảng
viên trẻ mạnh dạn tham gia đánh giá cán bộ quản lý; chương trình đào
tạo, kế hoạch và tổ chức quản lý đào tạo của trường; Giảng viên trẻ phải
là đội ngũ đi tiên phong trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, tích
cực ứng dụng CNTT trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Hỗ trợ và
hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học và làm niên luận khóa luận tốt
nghiệp.
|
Thiếu tướng, PGS, TS Vũ Đức Hinh |
* Thiếu tướng, PGS, TS Vũ Đức Hinh - Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2:
Có thể nói, hầu hết các trường ĐH, CĐ hiện nay đang tồn tại một thực
trạng chung là tỉ lệ giảng viên/ SV không đảm bảo theo qui định. Lực
lượng kế cận mỏng, nhiều SV có trình độ và năng lực sư phạm xuất sắc sau
khi tốt nghiệp có tâm lý không muốn ở lại trường công tác; trong khi đó
những giảng viên có học hàm, học vị cao và có uy tín trong giới khoa
học ngày càng ít dần. Nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế, chính sách đối
với đội ngũ giảng viên còn nhiều bất cập; cơ sở vật chất phục vụ công
tác giảng dạy và NCKH thiếu và lạc hậu; đồng lương thấp không đủ hấp dẫn
để giữ chân họ. Muốn nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, trước hết
phải làm cho họ thấy được vinh dự và tự hào khi được đứng trên bục
giảng. Đặc biệt là các trường ĐH,CĐ phải có chính sách tôn vinh, đãi ngộ
thỏa đáng đối với đội ngũ nhà giáo, phải làm cho giảng viên hoàn toàn
sống được bằng đồng lương. Khi tuyển chọn những người làm công tác giảng
dạy, phải coi trọng đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn. Siết
chặt khâu đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ để bảo đảm chất lượng, bởi đây là lực
lượng giảng dạy có trình độ cao, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo của các trường ĐH, CĐ.
|
GS.TS Nguyễn Văn Luật |
* GS.TS Nguyễn Văn Luật - nguyên Viện trưởng Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long:
Có một thực tế là hiện nay chất lượng đội ngũ giảng viên trong các
trường ĐH không đồng đều. Một số giảng viên có trình độ đáp ứng được yêu
cầu nhưng vẫn còn có giảng viên trình độ còn yếu, chưa đạt yêu cầu. Mà
mấu chốt quan trọng nhất trong việc phát triển giáo dục ĐH đó là con
người, vì ông thầy đóng vai trò rất quan trọng. Ví dụ như đào tạo một
ông thầy dạy môn tiếng Anh, nếu nhà trường đào tạo theo kiểu dạy cho hết
giáo trình, dạy để thi thì đó là kiểu đào tạo một con người nghiên cứu
ngôn ngữ chứ không phải đào tạo người sử dụng ngôn ngữ để áp dụng vào
thực tiễn. ...Xã hội tiếp nhận sản phẩm của ngành GD&ĐT đó là HS, SV
nhưng người đào tạo ra HS, SV chính là người thầy. Nên trách nhiệm của
người thầy đối với ngành giáo dục, với xã hội là rất lớn. Có thể thấy
rằng để có được một đội ngũ giảng viên tốt, đạt chất lượng còn khó hơn
vấn đề về CSVC của trường. Vì vấn đề CSVC khi có kinh phí sẽ giải quyết
được, còn nguồn nhân lực đôi khi có tiền mà vẫn không có được. Trước
hết, yêu cầu lớn nhất là đội ngũ lãnh đạo của các trường và đội ngũ
giảng viên phải làm sao đạt theo tiêu chuẩn mà Bộ GD& ĐT qui định.
Có như thế mới đáp ứng được xu thế phát triển giáo dục ĐH hiện nay.
|
PGS.TS Thái Bá Cần |
* PGS.TS Thái Bá Cần- Hiệu trưởng Trường ĐH SP Kỹ thuật TP.HCM:
Để đổi mới quản lý giáo dục ĐH một cách hiệu quả, không cách nào khác
là chúng ta phải đổi mới một cách mạnh mẽ, triệt để về tư duy quản lý và
các hình thái quản lý. Không thể đổi mới nếu lối tư duy quản lý kiểu
thụ động, tư duy kiểu bao cấp vẫn tồn tại. Chúng ta đang quyết tâm thực
hiện đổi mới GDĐH, đây thực sự là một tín hiệu đáng mừng và đã được cụ
thể hóa bằng hành động. Nhưng đây là một chặng đường lâu dài, và do đó
cần phải có tính chiến lược và phải được xây dựng trên những nền tảng cơ
bản bằng lối tư duy và quản lý thức thời, hiểu xã hội cần gì và nhu cầu
cơ bản của người học là gì? Đổi mới quản lý cần phải được hiểu là một
cơ hội để cho những người quản lý giáo dục được mạnh dạn, được thể hiện
những điều đột phá chứ không phải đổi mới quản lý theo kiểu ra thêm
nhiều văn bản, nắm cho thật chặt các cơ chế, quy định theo kiểu hành
chính. Đổi mới mà đi theo hướng đó sẽ không bao giờ mang lại hiệu quả và
GDĐH sẽ không thể nâng cao chất lượng được.
Bên
cạnh việc thay đổi nhận thức và đổi mới mạnh mẽ về tư duy thì việc phân
cấp các trường ĐH theo từng cấp, bậc nhằm đầu tư và phát triển các
trường theo từng cấp độ, từng trọng điểm khác nhau cũng là điều nên làm.
Chúng ta muốn có chất lượng GDĐH một cách thực sự thì cần phải xác định
rõ các loại hình trường, trường nào làm nhiệm vụ nghiên cứu thì đầu tư
phát triển theo hướng nghiên cứu, trường nào đào tạo theo hướng đáp ứng
nhu cầu xã hội thì đào tạo theo hướng phát triển công nghệ phù hợp với
các yêu cầu và đòi hỏi của doanh nghiệp, xã hội. Trong đó công tác kiểm
định và thực hiện chuẩn đầu ra với các loại hình đào tạo sẽ là một trong
những yếu tố bổ trợ cốt lõi nhất, hợp lý và tiên quyết nhất để chúng ta
thực hiện việc đổi mới. Tuy nhiên, việc thực hiện đổi mới phải được làm
một cách đồng bộ, mà quan trọng nhất theo tôi vẫn là 3 thành tố: đội
ngũ, kinh tế và phát triển công nghệ thông tin. Sẽ không thể nâng chất
và thực hiện đổi mới quản lý GDĐH nếu chúng ta không xác định rõ mục
tiêu cần tập trung đổi mới, các trường không ý thức rõ nhiệm vụ, vị trí
của mình trong tiến trình đổi mới, đội ngũ giảng dạy không hiểu rõ tầm
quan trọng của mình trong công cuộc đổi mới thì sẽ rất khó để chúng ta
thực hiện đổi mới một cách thành công.
* GS-TS Nguyễn Mộng Hùng- Hiệu trưởng Trường ĐH Văn Hiến: Đổi mới quản lý để nâng cao chất
|
GS-TS Nguyễn Mộng Hùng |
lượng
đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội theo yêu cầu của Thủ tướng là rất
đúng và rất quan trọng, nhưng đó chưa phải là tất cả của quá trình đổi
mới và nâng cao chất lượng cho một trường đại học. Bởi để thực hiện đổi
mới GDĐH, nó đòi hỏi một quá trình vận động, chuyển đổi rất lớn và rất
nhiều khâu từ cấp Bộ cho tới cấp trường. Chỉ có gạt bỏ ra ngoài tư tưởng
quản lý kiểu được chăng hay chớ và cách làm giáo dục kiểu phát triển
đằng ngọn, chúng ta mới đi trọn vẹn con đường đổi mới GDĐH. Để đổi mới,
ngoài sự đầu tư về vật lực và tiền tài, chúng ta cần phải có sự thay đổi
nhận thức thật mạnh mẽ trong đội ngũ quản lý. Tức là với trường mình,
với bộ ngành mình, chúng ta phải thấy được những yếu kém, hạn chế. Thẳng
thắn nhìn nhận, tự xem xét và đối chiếu với bản thân, với các trường ĐH
quốc tế trên thế giới để học tập. Trong đó việc trao đổi kinh nghiệm
giữa các trường, hệ thống ĐH trong nước với nhau về kinh nghiệm đổi mới
cũng là kênh để các trường học tập, khắc phục và thực hiện công tác đổi
mới cho mình. Nếu chúng ta chỉ thực hiện một cách hời hợt thông qua việc
hô hào, làm theo dạng phong trào mà vẫn giữ lối tư duy và quản lý kiểu
cũ, thì về mặt bản chất của hình thức thay đổi chúng ta có. Nhưng sự
thay đổi sâu sắc trong hệ thống GDĐH sẽ là hạn chế.
Việc
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên là điều ai cũng nhìn thấy nếu
muốn nâng chất GDĐH. Tuy nhiên, để lực lượng giảng viên đủ trình độ, đủ
số lượng đáp ứng công cuộc đổi mới thật sự là điều không thể làm trong
một sớm một chiều. Chính vì thế, muốn đổi mới có kết quả và mang tính
bền vững không cách nào khác là chúng ta cần phải bắt tay ngay vào việc
nâng cao cả về chất và lượng đội ngũ giảng viên trong thời gian tới
thông qua hình các hình thức đào tạo như cử tuyển, gửi đi đào tạo, tự
đào tạo ngay tại trường. Cần có một chính sách phát triển, đào tạo có
chiến lược, phù hợp với đặc điểm từng trường. Song song đó, công tác
tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cần phải được thúc đẩy nhiều hơn, có
nhiều chính sách hỗ trợ và ưu đãi hơn với các khối trường ĐH ngoài công
lập, tôi tin đổi mới quản lý và nâng chất GDĐH sẽ có kết quả trong thời
gian tới.
|
TS Phạm Tiết Khán |
* TS Phạm Tiết Khánh- Hiệu trưởng Trường ĐH Trà Vinh: Có
thể thấy rằng, Chỉ thị 296 của Thủ tướng và chương trình hành động của
Bộ GD&ĐT đã giúp các trường ĐH gỡ rối nhiều khó khăn, vướng mắc.
Trong đó, vấn đề tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các trường theo tôi
nghĩ đây là một bước tiến quan trọng trong công tác nâng cao chất lượng
đào tạo. Vấn đề thứ hai là phân quyền về quản lí nhà nước, về giám sát
các trường ĐH của UBND các địa phương, từ đây Bộ sẽ giảm nhẹ được khối
công việc, đồng thời giúp các địa phương kiểm tra chặt chẽ các đơn vị
trường ĐH, CĐ đóng trên địa bàn. Đa số các trường ĐH hiện nay, nhất là
các trường mới thành lập ở ĐBSCL còn gặp khó khăn về cơ sở vật chất. Nên
việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm giúp cho các trường chủ
động hơn trong việc huy động, tìm các nguồn lực để phát triển. Ngoài ra
có sự hỗ trợ của địa phương để cho các trường có được nguồn lực đáng kể.
Vấn đề tiếp theo ở các trường ĐH là công tác nghiên cứu khoa học phải
gắn chặt với nhu cầu của xã hội và doanh nghiệp. Nhà trường hiện nay
thực hiện theo yêu cầu của Bộ là đào tạo gắn kết với doanh nghiệp nên
đào tạo sẽ gắn với nhu cầu của sản xuất. Như vậy, vừa đáp ứng nhu cầu
của xã hội vừa nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học trong giảng viên,
SV.
Có thể thấy rằng Chỉ thị 296 của
Thủ tướng và chương trình hành động của Bộ GD là điều kiện cho các
trường ĐH cùng phát triển dù là trường mới thành lập hay các trường đã
thành lập lâu năm. Thực hiện theo chỉ thị là một trong những hướng mở
lối cho các trường vượt qua những khó khăn, vướng mắc để đảm bảo chất
lượng đào tạo ĐH.
Nhóm phóng viên (thực hiện)