Xét xử bị cáo bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo
Khi Tòa “nương tay” không có căn cứ
(ANTĐ) - Theo báo cáo mới đây của TAND TP Hà Nội, trong thời gian từ ngày 3-3-2008 đến 28-11-2008, toàn ngành đã xử số bị cáo bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo là 2.761 bị cáo của 29 Tòa án cấp quận, huyện, thành phố. Về cơ bản, các đơn vị xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững ANCT, TTATXH tại địa phương. Tuy nhiên, vẫn có một số bị cáo được hưởng án treo không đúng những quy định của pháp luật.
Không nhận tội, vẫn cho hưởng án treo
Ngày 4-4-2008, Nguyễn Văn Thi thuê máy xúc để khai thác đất trái phép. Trước sự việc đó, tổ công tác của xã gồm Phó Chủ tịch, Công an viên, Thanh tra xây dựng, cán bộ địa chính đã lập biên bản và yêu cầu Thi lái máy xúc về trụ sở UBND xã để giải quyết. Thi cầm biên bản bỏ đi. Tổ công tác yêu cầu người lái máy xúc lái xe về trụ sở UBND xã. Xe đi được một đoạn thì Thi lên xe và bảo lái xe quay về nhà. Anh Tuấn là Công an viên lên xe yêu cầu lái xe đưa xe về ủy ban thì bị Thi đuổi xuống và hất mạnh tay trúng cổ anh Tuấn.
Tuy rất khó chịu nhưng Tuấn vẫn giữ thái độ bình tĩnh, yêu cầu Thi trả lại biên bản. Thi không những không trả mà còn xé rách biên bản thành nhiều mảnh rồi vứt xuống đất trước mặt tổ công tác. Chính quyền địa phương phải tăng cường lực lượng mới áp giải được chiếc máy xúc về trụ sở UBND xã. Tại cơ quan tiến hành tố tụng, Thi cho rằng việc làm của mình là đúng và không thừa nhận có hành vi chống người thi hành công vụ.
Bản án sơ thẩm ngày 18-9-2008 của TAND huyện Sóc Sơn đã áp dụng điểm h, g, khoản 1, điều 46 BLHS, điều 60 BLHS, xử phạt bị cáo 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo trong khi bị cáo không thành khẩn nhận tội, không hối cải, vấn đề này gắn liền với nhân thân người phạm tội và biểu hiện của việc không chấp hành pháp luật là không đúng với Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2-10-2007 của Hội đồng thẩm phán TANDTC và nguyên tắc xét xử theo điều 3 BLHS. Mặt khác, Tòa án đã áp dụng điểm g, khoản 1, điều 46 BHLS phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn và điểm h, khoản 1, điều 46 BLHS phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là không đúng với tính chất của khách thể bị xâm hại đối với tội phạm này.
|
Giải các bị cáo trở về Trại tạm giam sau khi phiên tòa kết thúc | Trách nhiệm của người cầm cân nảy mực
Vụ án trên không phải là cá biệt. Quá trình kiểm tra, đánh giá của TAND TP Hà Nội cho thấy còn một số bản án áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo không đúng với quy định của BLHS và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thiếu sót phổ biến của Thẩm phán cũng như Hội đồng xét xử là chưa đánh giá một cách tổng hợp trên cơ sở căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự về quyết định hình phạt theo điều 45; Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điều 46;
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điều 48; Nguyên tắc xử lý theo khoản 1, khoản 2, khoản 3, điều 3 BLHS; Đặc biệt là điều 60 BHLS quy định về điều kiện, đối tượng được hưởng án treo và hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2-10-2007 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Có thể kể ra đây một số sai sót mang tính phổ biến dẫn tới những phán quyết thiếu khách quan như: Bị cáo có nhân thân xấu hoặc tái phạm nhưng Hội đồng xét xử vẫn áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ để cho hưởng án treo;
Trong khi xét xử, Hội đồng xét xử đã không cân đối tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ, quá “chú trọng” vào các tình tiết giảm nhẹ mà “quên” những tình tiết tăng nặng của bị cáo; Một số bị cáo không tỏ ra ăn năn hối cải, mặc dù các chứng cứ đã rõ ràng nhưng vẫn ngoan cố không thừa nhận hành vi phạm tội nhưng Hội đồng xét xử lại bỏ qua những chi tiết này và cho bị cáo được hưởng án treo; Sau khi phạm tội, một số bị cáo bỏ trốn khỏi nơi cư trú, không có địa chỉ rõ ràng, cố tình vắng mặt tại phiên tòa, thể hiện sự coi thường pháp luật nhưng vẫn cho hưởng án treo;
Một số Tòa án địa phương thực hiện không đúng hướng dẫn của TANDTC trong việc xét xử tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo điều 202 BLHS nên cho bị cáo được hưởng án treo là không thỏa đáng; Bên canh đó, có Tòa xét xử tội danh sai, áp dụng tình tiết giảm nhẹ sai dẫn đến việc cho hưởng án treo không đúng; Đánh giá không đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nên cho bị cáo hưởng án treo...
Những sai sót của Thẩm phán, Hội đồng xét xử dẫn đến những bản án thiếu khách quan, công bằng có thể do lỗi vô ý vì hạn chế về nhận thức. Cũng có thể do lỗi cố ý khi họ bị người nhà bị cáo hoặc bị cáo “tác động” bằng nhiều con đường khác nhau. Kèm với nó là sự “thỏa hiệp” hay “những lời hứa hẹn” và kết quả là tuyên những bản án không chuẩn xác về mặt pháp lý như vậy.
Nếu thống kê một cách chi tiết hơn thì có 13 vụ án và hơn 20 bị cáo được hưởng án treo không đúng với các quy định của pháp luật mà thời gian qua, TAND TP Hà Nội và Tòa án các quận, huyện đã xét xử.
Muốn hạn chế những bản án trên là một việc không đơn giản, cần phải có một quá trình. Đặc biệt, phải có một đội ngũ Thẩm phán vừa hồng, vừa chuyên, luôn học hỏi và nâng cao trình độ chuyên môn. Mặt khác, người ra những bản án thiếu căn cứ pháp luật đó không chỉ bị phê bình, rút kinh nghiệm mà cũng cần có những hình thức xử lý cần thiết. Chỉ có như vậy, uy tín của cơ quan xét xử mới được nâng cao và pháp luật mới thực sự có ý nghĩa trong đời sống.
Hiền Phương |